Lê Nghĩa Trạch (1536 – 1614) người xã Cổ Đôi huyện Nông Cống (nay thuộc xã Hoàng Giang, Nông Cống, Thanh Hóa). Ông là con trai của cụ Lê Chính Xác – người có nhiều đóng góp cho triều đình nhà Lê, được vua phong tặng “Kiệt tiết tuyên lực công thần”.
Đại khoa đứng đầu hàng đệ nhị
Sinh ra trong gia đình có truyền thống thi thư chữ nghĩa nên Lê Nghĩa Trạch được học hành bài bản. Tương truyền ngay từ thuở nhỏ, ông đã rất thông minh, nổi tiếng thần đồng không chỉ trong làng Cổ Đôi mà còn lan rộng khắp vùng xứ Thanh, được vua biết mặt được chúa chỉ tên.
Theo các tài liệu đăng khoa lục, lúc tròn 30 tuổi Lê Nghĩa Trạch tham gia ứng thí, vào thi hội đỗ ngay Đệ nhị giáp đồng Chế khoa Tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Ất Sửu niên hiệu Chính Trị năm thứ 8 (1565), đời vua Lê Anh Tông. Lịch sử đăng khoa cũng ghi nhận Lê Nghĩa Trạch đứng đầu hàng đệ nhị, trên Đinh Doãn Tín, Lê Văn Xướng, Hoàng Quốc Thực, Đỗ Cảnh và Lê Đa Năng.
Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi Ất Sửu (1565) có đoạn viết rằng: “Chế khoa năm Ất Sửu (1565) bèn được mở ra. Đặc sai các quan Đề điệu, Tri Cống cử, Giám thí chia giữ các việc, vâng mệnh lựa chọn sĩ tử văn học bốn phương. Qua bốn trường, lấy trúng cách được 10 người.
Hoàng thượng đích thân ngự ở hiên điện ra đề thi, định thứ bậc cao thấp. Ban cho bọn Lê Khiêm 4 người đỗ Đệ nhất giáp Chế khoa xuất thân, bọn Lê Nghĩa Trạch 6 người đỗ Đệ nhị giáp đồng Chế khoa xuất thân.
Chọn ngày xướng danh yết bảng, tỏ cho sĩ tử thấy kết quả tốt đẹp. Ban tước trật để tỏ lòng ưu ái, cho áo mũ cân đai để điểm tô, ban yến Quỳnh Lâm, ơn sủng tràn đầy mà lễ đãi ngộ cũng rất hậu vậy. Bấy giờ dân chúng trong nước đều hân hoan nói: Đời vua thánh mở khoa, ơn vinh rất trọng, sĩ tử đến nay vẫn bàn cho là việc tốt đẹp.
Những người đỗ khoa thi này đều là người tài giỏi lỗi lạc, chăm lo việc nước việc vua, hơn cả Tiêu, Trương giúp chúa, sự nghiệp sánh với Y, Chu ngày xưa. Công danh sự nghiệp của các vị ấy thực là rạng rỡ, đời sau còn mãi mãi được nhờ.
Mừng nay Hoàng thượng bệ hạ gánh trách nhiệm làm vua làm thầy, nắm quyền định đoạt, rộng tìm hào kiệt, sắp đặt điển chương. Thực nhờ (Đại nguyên súy Thống quốc chính Sư phụ Thanh vương) đích thân gánh vác thiên hạ, ra sức nắm giữ càn khôn mà kẻ sĩ bốn phương mây họp, chuyên ủy cho (Nguyên súy Chưởng quốc chính Tây Định vương) lo việc trị, tiến cử cất nhắc hiền tài, chấn chỉnh triều cương, lấy thiên hạ làm trách nhiệm của mình.
Nghĩ tới các vị công thần trung hưng, muốn danh sáng của họ được lưu truyền trong sử sách, quán các, biểu dương công lao bảo vệ nước nhà, định yên xã tắc, bèn sai từ thần ở Viện Hàn lâm chia nhau soạn bài ký ghi việc thực để công danh sự nghiệp của các vị ấy lưu truyền đến đời sau.
Sau khi đỗ đạt, Tiến sĩ Lê Nghĩa Trạch được bổ các chức quan và làm tới Lại bộ Tả thị lang, khi mất được truy tặng Binh bộ Thượng thư, tước quận công. Ông cùng cha mình là Lê Chính Xác cùng làm việc trong triều nhà Lê. Bởi thế mới có câu: “Phụ tử đồng triều phu cộng khánh/ Quân thần tương hội ích hoằng công”.
Mưu trí thoát bẫy chúa Nguyễn
Theo sách “Đại Việt sử kí toàn thư”, năm 1558 Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Thuận Hóa (vùng Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế ngày nay). Từ đó, quá trình xây dựng cơ sở cát cứ của họ Nguyễn bắt đầu.
Tuy nhiên, từ năm 1558 đến năm 1600, bề ngoài Nguyễn Hoàng vẫn tỏ rõ sự thần phục đối với vua Lê – chúa Trịnh, thực hiện đầy đủ phận sự của một kẻ bề tôi.
Đến đầu năm Canh Tí (1600), mượn cớ đi dẹp loạn Bùi Văn Khuê, Phan Ngạn và Ngô Đình Nga ở vùng đồng bằng Bắc Bộ ngày nay, Nguyễn Hoàng đã đem hết tay chân thân tín và quân bản bộ của mình chạy về Thuận Hóa, có ý thoát hẳn ra khỏi vòng cương tỏa của vua Lê – chúa Trịnh.
Bấy giờ, vì dư đảng của họ Mạc và các thế lực chống đối khác còn mạnh, trong khi đó, Thuận Hóa xa xôi, Nguyễn Hoàng lại là bậc lão tướng có tài nên chúa Trịnh là Trịnh Tùng chưa thể lập tức đem quân đánh vào Thuận Hóa là đất dựng nghiệp của Nguyễn Hoàng.
Đó là chưa kể, xét về thế thứ họ hàng, Nguyễn Hoàng còn là cậu ruột của Trịnh Tùng, chưa gì đã vội đem quân đánh nhau là điều không nên. Không đánh nhưng lại muốn khẳng định quyền uy của mình nên Trịnh Tùng đã sai quan Thiêm đô ngự sử, tước Gia Lộc tử là Lê Nghĩa Trạch mang thư vào cho Nguyễn Hoàng.
Sử liệu ghi: “Thư ấy viết rằng: Phàm là bậc đại thần thì phải biết cùng vui cùng buồn với việc nước. Đối với nước, cậu là bậc đời đời có công đầu. Đối với nhà, cậu là bậc tình nghĩa chi thân.
Tiên tổ mất đi, tiên khảo là Minh Khang Thái vương (chỉ Trịnh Kiểm) nắm giữ việc lớn của nước nhà, bởi thấy cậu là người ruột thịt nên mới trao cho cai quản hai xứ Thuận, Quảng. Từ ngày nhận chức đến nay, cậu đã vỗ yên dân địa phương, thực là có công lớn.
Tiên khảo chầu trời, cháu được nắm giữ binh quyền, vẫn để cậu giữ chức vụ như cũ. (Nhưng, dù cháu đã) nhiều lần gởi thư yêu cầu cậu lo thu tiền thuế và chuyển vận lương thực để góp phần chi dùng cho nước nhà thì cậu lại thường lấy cớ đường biển khó khăn hiểm trở để từ chối. Đến khi lấy được kinh thành, thiên hạ đã yên thì cậu mới ung dung theo về.
(Dẫu vậy) triều đình vẫn một lòng ưu đãi, (trao cho cậu) quyền trông coi phủ Hà Trung và bảy huyện thuộc trấn Sơn Nam, lại phong chức Hữu tướng, có ý mong rằng, cậu sẽ cùng với Tả tướng tước Vinh Quốc công là Hoàng Đình Ái giúp rập hai bên tả hữu mà có thể hoàn thành được sự nghiệp trung hưng, vỗ yên dân chúng cả nước Nam ta.
Mới rồi, bọn nghịch thần là Phan Ngạn, Bùi Văn Khuê và Ngô Đình Nga manh tâm phản bội, dấy quân làm loạn. Cháu đang cùng với cậu bàn tính việc binh, truy quét đảng nghịch, nào có ngờ đâu, cậu không đợi mệnh, tự tiện bỏ về, làm lay động lòng người, chẳng biết đó là ý cậu hay là cậu đã nghe lầm ý gian của bọn nghịch thần.
Nay, bọn Bùi Văn Khuê và Phan Ngạn đánh hại lẫn nhau và cả hai đã bị giết, thế mới hay là đạo trời luôn sáng tỏ, giáng họa không kịp trở gót, chắc cậu đã biết cả rồi.
Sự việc đến thế, nếu cậu biết tỉnh ngộ và hối lỗi, nghĩ đến công lao của tiên tổ mà sai người đem thư đến hành tại để lạy trình, rồi dốc lòng lo nạp tiền thuế để chi dùng vào việc chung của nước nhà, thì hẳn nhiên là công sẽ trừ tội, triều đình ghi nhận lòng thành của cậu, công lao ngày trước của cậu được giữ vẹn toàn, công danh sự nghiệp bao đời được bền lâu mãi mãi.
Nếu không làm như vậy, thì triều đình sẽ lấy thuận đánh nghịch, việc dùng binh đã có cớ rồi, danh tiết của cậu sẽ ra sao? Trong việc quân, cậu vẫn thường lưu ý đến kinh sử, xin hãy nghĩ kĩ, chớ để hối hận về sau.
Lê Nghĩa Trạch vào Thuận Hóa, dò biết Nguyễn Hoàng vốn là bậc túc trí đa mưu, liền lấy thư (của chúa) bỏ vào ống rồi đem giấu ở bụi rậm ngoài đồng, xong mới sai xá nhân báo tin mình đến. Nguyễn Hoàng nghe tin Lê Nghĩa Trạch tới, bèn lập mưu cướp lấy thư và làm nhục sứ giả.
Đêm ấy, Nguyễn Hoàng sai võ sĩ đến chỗ trọ của Lê Nghĩa Trạch, cướp hết hòm xiểng mang về. Mở ra, thấy không có thư, lại sai võ sĩ tới đốt hết cả nơi trọ. Nguyễn Hoàng tin như thế là mọi giấy tờ đều bị lửa thiêu hết rồi. Hôm sau, Nguyễn Hoàng thân hành dẫn tướng tá, chỉnh đốn voi ngựa và nghi vệ ra đón.
Bấy giờ, thấy Lê Nghĩa Trạch hai tay bưng thư đi đến, Nguyễn Hoàng lấy làm kinh ngạc, nói với tướng tá của mình rằng: Trời sinh ra bậc chủ tướng, triều đình có người giỏi. Từ đấy Nguyễn Hoàng không còn có ý ngấp nghé gì nữa”.
Kẻ đa mưu gặp người túc trí
Bàn về việc này, nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần trong “Việt sử giai thoại” nhận định, nói chung là không ai muốn và cũng không ai có thể phủ nhận vai trò của Nguyễn Hoàng trong việc khai mở dòng chúa Nguyễn và trong quá trình xây dựng xứ Đàng Trong.
Tuy nhiên, đặt trong mối quan hệ xung đột phức tạp của xã hội đương thời, nếu đứng ở một góc độ nào đấy, cũng có thể nói Nguyễn Hoàng là một nghịch thần.
Bản thân Nguyễn Hoàng cũng tự thấy, ông đã làm điều trái ý vua Lê – chúa Trịnh. Đối đầu bằng vũ lực thì chưa thể, nhưng quyết tâm bứt ra khỏi vòng cương tỏa của vua Lê – chúa Trịnh thì đã rõ lắm rồi.
Phận sự của Lê Nghĩa Trạch là phải chuyển đạt cho bằng được bức thư của chúa Trịnh Tùng tới Nguyễn Hoàng, bởi đó là bức thư nói rõ lập trường của chúa Trịnh Tùng, để ít ra là cũng làm cho tay chân của Nguyễn Hoàng biết mà suy nghĩ.
Công việc mới khó làm sao. Lê Nghĩa Trạch khen Nguyễn Hoàng là bậc túc trí đa mưu, nhưng xem ra, Lê Nghĩa Trạch cũng đáng được coi là người đa mưu túc trí. Ông biết giữ cái gì cần phải giữ nhất, và ông đã thành công. Ở đời, đôi khi chỉ hơn nhau ở chỗ nên giữ cái gì nhất thiết phải giữ như thế mà thôi. Kẻ đa mưu gặp kẻ đa mưu, thói thường thiên cổ vẫn là vậy.